I. Quyền thừa kế

Theo quy định tại Điều 613 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về người thừa kế như sau: “Người thừa kế là cá nhân phải là người còn sống vào thời điểm mở thừa kế hoặc sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi người để lại di sản chết. Trường hợp người thừa kế theo di chúc không là cá nhân thì phải tồn tại vào thời điểm mở thừa kế”.

Theo quy định trên, pháp luật không hề quy định người bị bệnh tâm thần không được hưởng thừa kế. Do vậy, nếu người bị bệnh tâm thần được hưởng thừa kế thì sẽ được hưởng trong những trường hợp như thế nào và những trường hợp nào người bị bệnh tâm thần không được hưởng thừa kế. Hãy cùng đọc tiếp đến phần tiếp theo nhé!

II. Người bị bệnh tâm thần có được hưởng thừa kế không?

1. Quy định pháp luật về người bị bệnh tâm thần và quyền hưởng thừa kế của họ

Theo quy định tại Điều 22 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về người mất năng lực hành vi dân sự như sau: 

“1. Khi một người do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án ra quyết định tuyên bố người này là người mất năng lực hành vi dân sự trên cơ sở kết luận giám định pháp y tâm thần.

Khi không còn căn cứ tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự thì theo yêu cầu của chính người đó hoặc của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án ra quyết định hủy bỏ quyết định tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự.

2. Giao dịch dân sự của người mất năng lực hành vi dân sự phải do người đại diện theo pháp luật xác lập, thực hiện”.

Thứ nhất, theo quy định về quyền thừa kế, pháp luật không quy định người bị bệnh tâm thần không được hưởng thừa kế. Do vậy, người bị bệnh tâm thần vẫn được hưởng tài sản thừa kế. Thứ hai, những người bị bệnh tâm thần cũng không thuộc vào những trường hợp không được hưởng thừa kế được quy định tại Điều 621 Bộ luật Dân sự 2015 như sau:

“1. Những người sau đây không được quyền hưởng di sản:

a) Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe hoặc về hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản, xâm phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của người đó;

b) Người vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản;

c) Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng người thừa kế khác nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ phần di sản mà người thừa kế đó có quyền hưởng;

d) Người có hành vi lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản người để lại di sản trong việc lập di chúc; giả mạo di chúc, sửa chữa di chúc, hủy di chúc, che giấu di chúc nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản trái với ý chí của người để lại di sản.

2. Những người quy định tại khoản 1 Điều này vẫn được hưởng di sản, nếu người để lại di sản đã biết hành vi của những người đó, nhưng vẫn cho họ hưởng di sản theo di chúc”. 

Do vậy, theo những quy định được nêu ở trên, người bị bệnh tâm thần vẫn được hưởng thừa kế, những người không được hưởng quyền di sản chỉ bao gồm những người bị kế án về hành vi cố ý câm phạm người khác, người vi phạm nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại nghiên trọng, người có hành vi lừa dối trong việc lập di chúc để lại di sản… chứ không hề quy định người bị bệnh tâm thần không được hưởng thừa kế. Thế nhưng tài sản thừa kế bây giờ có được sử dụng không, được sử dụng như thế nào, do chính người bị tâm thần quản lí hay sản hay là ai quản lí tài sản đó. Hãy đi tìm hiểu tiếp xem ai là người quản lí tài sản thừa kế của người bị bệnh tâm thần.

2. Người giám hộ của người bị bệnh tâm thần 

Vì những người bị bệnh tâm thần là những người bị mất năng lực hành vi dân sự nên họ không tự lựa chọn giám hộ cho mình mà sẽ có những người giams hộ đương nhiên của người bị bệnh tâm thần. Những người này được quy định tại Điều 53 Bộ luật Dân sự 2015 như sau:

“Trường hợp không có người giám hộ theo quy định tại khoản 2 Điều 48 của Bộ luật này thì người giám hộ đương nhiên của người mất năng lực hành vi dân sự được xác định như sau:

1. Trường hợp vợ là người mất năng lực hành vi dân sự thì chồng là người giám hộ; nếu chồng là người mất năng lực hành vi dân sự thì vợ là người giám hộ.

2. Trường hợp cha và mẹ đều mất năng lực hành vi dân sự hoặc một người mất năng lực hành vi dân sự, còn người kia không có đủ điều kiện làm người giám hộ thì người con cả là người giám hộ; nếu người con cả không có đủ điều kiện làm người giám hộ thì người con tiếp theo có đủ điều kiện làm người giám hộ là người giám hộ.

3. Trường hợp người thành niên mất năng lực hành vi dân sự chưa có vợ, chồng, con hoặc có mà vợ, chồng, con đều không có đủ điều kiện làm người giám hộ thì cha, mẹ là người giám hộ”.

Những tường hợp trên là nhưỡng trường hợp giám hộ đương nhiên của người bị bệnh tâm thần. Trường hợp người bị bệnh tâm thần không có giám hộ đương nhiên như ở trên quy định thì Uỳ ban nhân dân cấp xã của người bị bệnh tâm thần sẽ phải có trách nhiệm cử người giám hộ.

3. Người quản lí tài sản của người bị bệnh tâm thần được hưởng thừa kế

Theo quy định tại Khoản 1 Điều 59 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về quản lí tài sản của người được giám hộ như sau: “Người giám hộ của người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự có trách nhiệm quản lý tài sản của người được giám hộ như tài sản của chính mình; được thực hiện giao dịch dân sự liên quan đến tài sản của người được giám hộ vì lợi ích của người được giám hộ. Việc bán, trao đổi, cho thuê, cho mượn, cho vay, cầm cố, thế chấp, đặt cọc và giao dịch dân sự khác đối với tài sản có giá trị lớn của người được giám hộ phải được sự đồng ý của người giám sát việc giám hộ. Người giám hộ không được đem tài sản của người được giám hộ tặng cho người khác. Các giao dịch dân sự giữa người giám hộ với người được giám hộ có liên quan đến tài sản của người được giám hộ đều vô hiệu, trừ trường hợp giao dịch được thực hiện vì lợi ích của người được giám hộ và có sự đồng ý của người giám sát việc giám hộ”. Tóm lại, khi người bị bệnh tâm thần hưởng thừa kế, người giám hộ sẽ có trách nhiệm quản lí tài sản của người bị bệnh tâm thần như chính tài sản của mình. Nhưng tất cả phải vì lợi ích của người bị bệnh tâm thần chứ người giám hộ bây giờ không có quyền đem tài sản của người bị bệnh tâm thần đi tặng, cho người khác hay giao dịch dân sự tài sản này mà không vì lợi ích của người bị tâm thần. Đối với những tài sản có giá trị lớn thì phải có sự đồng ý của người giám sát việc giám hộ thì người giám hộ mới được quyền quyết định như bán, cho thuê, cầm cố, thế chấp, đặt cọc… Tất cả mọi giao dịch đều vô hiệu nếu không có sự đồng ý của người giám sát việc giám hộ hay không vì lợi ích của người bị tâm thân. Pháp luật quy định như vậy để cho những người bị bệnh tâm thần không bị lợi dụng vì những tài sản thừa kế của mình hay đảm bảo những tài sản thừa kế của họ được sử dụng đúng mục đích, tất cả mọi giao dịch liên quan đến tài sản thừa kế của người bị bệnh tâm thần phải đều liên quan đến lợi ích của họ.